Chứng khoán phái sinh quốc tế có lịch sử phát triển lâu đời và rất phong phú qua nhiều thế kỷ. Sự phát triển vượt bậc và rộng khắp của thị trường chứng khoán phái sinh hiện nay chính là kết quả của quá trình hình thành, thay đổi và sáng tạo qua hàng trăm năm.
Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính mà giá trị của chúng phụ thuộc vào giá của một tài sản cơ sở, có thể là hàng hóa như nông sản, kim loại... hoặc công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất…
CKPS được quy định quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng đối với việc thanh toán hoặc chuyển giao tài sản cơ sở với một mức giá được thỏa thuận trước vào một thời điểm nhất định trong tương lai.
Hàng hóa giao dịch thời kỳ này là ngũ cốc, lúa mì, bắp, đậu, về sau có thêm gia súc, trứng, thực phẩm và nước trái cây ướp lạnh. Phổ biến trong thời kỳ này là các hợp đồng kỳ hạn về nông phẩm.
Về sau, để khắc phục nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn là không được chuẩn hóa và khó bán lại cho bên thứ ba, hợp đồng tương lai đã ra đời.
Những năm 1980: CKPS đã đạt đến đỉnh cao đặt dấu ấn thứ hai trong toàn bộ quá trình phát triển khi các sản phẩm phái sinh trên tài sản tài chính như cổ phiếu đơn lẻ, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu và các kim loại quý, năng lượng ra đời cùng với quá trình hiện đại hóa công nghệ, việc kết nối thị trường đã vượt ra khỏi các rào cản về địa lý..
Việc xuất hiện CKPS trên chỉ số cổ phiếu và trái phiếu chính phủ đã đáp ứng nhu cầu cung cấp các sản phẩm phòng hộ rủi ro cho danh mục đầu tư đa dạng, hoặc cho phép nắm giữ các danh mục đầu tư mô phỏng thị trường với lợi ích đòn bẩy rất cao.
Đối với những mặt hàng là kim loại quý và năng lượng, phái sinh trên các mặt hàng này đáp ứng được việc dự đoán giá cả, phòng hộ rủi ro và báo trước những diễn biến trên thị trường cơ sở.
Năm 2008: Khi khủng hoảng tài chính xuất hiện nhiều lần và đỗ vỡ với quy mô toàn cầu các thị trường lớn đã phải tiến tới giao dịch và bù trừ, thanh toán tập trung cho CKPS, đã dấy lên một hồi chuông cảnh tỉnh về việc thắt chặt quy định và tăng cường giám sát, buộc TTCK phải đưa ra các quy định chung về ký quỹ, và thắt chặt các quy định giao dịch, điều này đã góp phần giúp ổn định và đảm bảo sự phát triển bền vững của TTCKPS về sau.
Có thể nói rằng đây là cuộc khủng hoảng khởi nguồn từ các hợp đồng phái sinh trên thị trường tự do OTC, thuộc về sản phẩm phái sinh bậc cao dựa trên nhiều lớp tài sản chứng khoán hóa từ nợ xấu bất động sản.
Đối với các sản phẩm chứng khoán phái sinh cơ bản, đặc biệt là các sản phẩm giao dịch trên thị trường tập trung và bù trừ thông qua đối tác bù trừ trung tâm (CCP – Central Counter Party), lịch sử cho thấy chưa có tình huống mất khả năng thanh toán nào vượt quá tầm kiểm soát và các bước đệm quản lý rủi ro của thị trường.
Qua một chặng đường dài hình thành và phát triển, hiện nay trên thế giới đã có tới 100 Sở giao dịch đã đưa vào sản phẩm chứng khoán phái sinh, thuộc 41 khu vực quốc gia và vùng lãnh thổ có nền kinh tế đã và đang phát triển.
Đối với các nhà đầu tư, việc giao dịch chứng khoán phái sinh sẽ mang lại nhiều lợi ích, sau đây là những ưu điểm to lớn của CKPS mà các nhà đầu tư cần biết :
Những nước đi đầu trong việc mở cửa cho chứng khoán phái sinh phát triển đều là những nước vươn mình mạnh mẽ về kinh tế và khiến thế giới ngưỡng mộ với những đột phá trong thời gian ngắn. Bởi thế, ngoài những lợi ích kể trên dành cho nhà đầu tư không thể không nhắc đến những đóng góp của chứng khoán phái sinh đối với kinh tế thị trường:
Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận pháp lý giữa hai bên tham gia về việc mua và bán một loại tài sản tại một thời điểm nhất định trong tương lai với mức giá được xác định trước tại ngày thực hiện giao dịch.
Hợp đồng kỳ hạn có giá trị pháp lý ràng buộc giữa hai bên mua và bán; đến kỳ hạn thực hiện (ngày đáo hạn hợp đồng), người có hợp đồng mua có quyền và nghĩa vụ phải mua, người có hợp đồng bán có quyền và nghĩa vụ bán.
Hợp đồng tương lai (HĐTL) là một dạng hợp đồng kỳ hạn đã được chuẩn hóa, niêm yết và giao dịch tại thị trường tập trung (Sở GDCK), do Sở GDCK xây dựng hợp đồng mẫu sau đó niêm yết và được giao dịch tập trung tại Sở GDCK, được thỏa thuận mua bán thông qua người môi giới (thành viên giao dịch trên TTCK phái sinh).
Trước khi giao dịch hợp đồng tương lai, NĐT phải nộp ký quỹ vào tài khoản ký quỹ (Margin Account) theo mức quy định tối thiểu của Trung tâm bù trừ thanh toán CKPS, thông qua CTCK nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch chứng khoán phái sinh nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động giao dịch hợp đồng tương lai gọi là mức ký quỹ ban đầu.
Trong trường hợp mức kỹ quỹ này xuống thấp hơn mức ký quỹ duy trì, nhà đầu tư phải bổ sung tiền mặt hoặc chứng khoán có trong danh sách chấp nhận làm tài sản của Trung tâm bù trừ thanh toán CKPS (với một mức chiết khấu nhất định cho từng cổ phiếu) để tăng giá trị ký quỹ về mức tối thiểu mức ký quỹ ban đầu. Trong trường hợp tỷ lệ ký quỹ của nhà đầu tư cao hơn mức ký quỹ duy trì theo quy định của công ty chứng khoán, nhà đầu tư có thể rút ra phần tài sản dư.
Khi được giao dịch, giá của hợp đồng tương lai thay đổi liên tục, tăng hoặc giảm trong ngày, tương tự như việc giao dịch cổ phiếu hiện tại trên thị trường chứng khoán cơ sở và được hạch toán theo giá hàng ngày căn cứ trên giá thị trường (marking to market daily). Điều đó có nghĩa là trong kỳ hạn của hợp đồng tương lai, các khoản lãi/lỗ hàng ngày được cộng/trừ vào tài khoản ký quỹ của mỗi bên.
Ví dụ: Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu VN30-Index có các nội dung như sau:
Hợp đồng quyền chọn (HĐQC) là một công cụ tài chính cho phép người mua có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua hay bán một tài sản cơ sở với mức giá đã được ấn định vào trước hoặc đúng ngày đã được xác định trong tương lai.
Các yếu tố cấu thành hợp đồng quyền chọn:
Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn:
HĐQC có thể thực hiện theo 2 kiểu:
Hợp đồng hoán đổi (HĐHĐ) là một thỏa thuận pháp lý trong đó hai bên cam kết hoán đổi dòng tiền của một công cụ tài chính của một bên với dòng tiền của công cụ tài chính của bên còn lại trong một khoảng thời gian nhất định.
Quá trình phát triển của sản phẩm phái sinh chứng khoán ở Trung Quốc cùng với những bài học của nó có hàm ý cực kỳ quan trọng cho TTCKPS các nước, đặt biệt là Việt Nam do tính tương đồng về thể chế, văn hóa cũng như mô hình phát triển thị trường tài chính của 2 quốc gia. Có thể nói, tiến trình phát triển thị trường sản phẩm phái sinh chứng khoán ở Trung Quốc là một tiến trình thử nghiệm, bỏ dở rồi lại quay lại thử nghiệm.
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, Trung Quốc áp dụng lần đầu tiên sản phẩm chứng quyền và hợp đồng tương lai vào thị trường chứng khoán phái sinh của đất nước mình. Những cơ chế làm giá và thể chế chính phủ bê bối đã gây nên một đợt náo loạn với “sự kiện 327” khiến thị trường chứng khoán phái sinh bị đóng cửa chỉ sau 5 năm hình thành thử nghiệm.
Rất nhiều những thay đổi và nỗ lực hồi phục đã được thực hiện sau đó nhưng không kéo dài lâu do thiếu tính “khách quan” và tự vận hành của một thị trường mở. Với tham vọng trở thành trung tâm tài chính thế giới, Trung Quốc vẫn đang cố gắng để phát triển chứng khoán phái sinh với sản phẩm chứng quyền,..nhưng đến nay vẫn chưa có gì khởi sắc.
Cùng giai đoạn đó, Sở Giao dịch Hợp đồng tương lai tài chính Trung Quốc - CFFEX (China Financial Futures Exchange) được thành lập để phát triển thị trường CKPS tài chính từ năm 2006.
Trong lịch sử, tiến trình thành lập, đóng cửa và tái sinh của thị trường phái sinh Trung Quốc, TTCKPS các nước có thể rút ra những bài học chủ yếu sau:
Những bài học rút ra từ quá trình phát triển của thị trường chứng khoán ở Trung Quốc về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, thống nhất quản lý và khung pháp lý cũng như hạn chế để bong bóng phái sinh tăng quá mức gây tổn hại đến NĐT còn ít hiểu biết, là những vấn đề mà tất cả các bên có liên quan đến thị trường phái sinh chứng khoán, từ cơ quan quản lý, công ty chứng khoán, NĐT đến cơ quan truyền thông cần phải quan tâm để tránh vết xe đổ của Trung Quốc.
Có thể nói chứng khoán phái sinh quốc tế đã và đang phát triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế các nước cũng như hệ thống tài chính toàn cầu, đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường chứng khoán.